Chiến lược quân sự của Bỉ Trận_nước_Bỉ

Cùng với việc chính thức rút ra khỏi phe Đồng Minh, người Bỉ đã từ chối tiến hành bất cứ một cuộc gặp gỡ chính thức nào với giới tham mưu quân sự Pháp và Anh vì lo sự tổn hại đến tính trung lập của mình. Bỉ cho rằng cuộc xâm lăng từ nước Đức không phải là không thể tránh khỏi và xác định rõ rằng nếu cuộc xâm lược đó diễn ra, họ sẽ có thể kháng cự một cách hiệu quả dựa vào những công sự như pháo đài Eben Emael.[22]

Người Bỉ đã tiến hành nhiều phương thức nhằm tái dựng lại hệ thống phòng thủ nằm dọc theo biên giới với Đức kể từ khi Adolf Hitler lên nắm quyền lực vào tháng 1 năm 1933. Chính phủ Bỉ đã theo dõi, với mối lo âu ngày một tăng, việc Đức rút ra khỏi Hội Quốc Liên, việc Đức không công nhận hoà ước Versailles, cũng như sự vi phạm hiệp định Locarno của Đức.[23] Chính phủ Bỉ đã tăng cường ngân sách chi phí cho việc hiện đại hoá các công sự tại NamurLiège. Những tuyến phòng thủ mới được thiết lập dọc theo tuyến kênh đào Maastricht–Bois-le-Duc, nối liền sông Meuse và sông Scheldt với kênh đào Albert.[23] Công tác bảo vệ đường biên giới phía đông, chủ yếu dựa vào việc phá huỷ một số đường sá, đã được giao cho các bộ phận mới thành lập (các đơn vị xe đạp biên phòng, "Chasseurs Ardennais" - những người thợ săn vùng Ardennes).[24]Đến năm 1935, hệ thống phòng thủ của Bỉ đã hoàn thành.[24] Tuy vậy, người ta vẫn cảm thấy rằng sự bố phòng này là không thoả đáng. Sự bảo vệ trước một cuộc tấn công bất ngờ của quân Đức vẫn chưa đầy đủ,[24] cần có một lực lượng dự bị cơ động đáng kể để bảo vệ các khu vực hậu phương. Cũng cần phải có những nguồn dự trữ nhân lực đầy đủ, nhưng một dự luật nhằm kéo dài thời hạn nghĩa vụ quân sự và tăng cường huấn luyện quân đội đã bị công chúng bác bỏ dựa trên quan điểm cho rằng điều đó sẽ làm tăng thêm những ràng buộc quân sự đối với Bỉ cũng như những yêu cầu của Đồng Minh về việc tham gia những xung đột ở bên ngoài nước Bỉ.[25]

Ngày 14 tháng 10 năm 1936, Quốc vương Leopold III trong một bài diễn văn đọc trước Hội đồng Bộ trưởng, đã cố gắng thuyết phục nhân dân (và cả chính phủ) rằng hệ thống phòng thủ cần phải được củng cố hơn nữa.[25] Leopold đã đưa ra ba luận điểm quân sự trọng tâm trong công tác tăng cường vũ trang của Bỉ:

  • Sự tái vũ trang của nước Đức, tiếp theo việc Ý và Nga (Liên Xô) hoàn thành công tác tái vũ trang, đã khiến hầu hết các quốc gia khác, kể cả những nước ưa chuộng hoà bình, như Thuỵ Sĩ và Hà Lan, phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa đặc biệt
  • Đã có sự thay đổi lớn lao trong phương thức tiến hành chiến tranh do kết quả của tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng không và cơ giới, mà những diễn biến ban đầu của cuộc xung đột vũ trang giờ có thể bao gồm các lực lượng, tốc độ và tầm quan trọng mà đặc biệt đáng báo động đối với các quốc gia nhỏ như Bỉ.
  • Nỗi lo âu của chúng ta càng tăng thêm với việc tái chiếm chớp nhoáng vùng Rhineland và thực tế là các căn cứ dành cho việc khởi đầu một cuộc xâm lược có thể xảy ra của Đức đã được dời đến gần biên giới của chúng ta.[26]

Ngày 24 tháng 4 năm 1937, Anh và Pháp cùng đưa ra một tuyên bố chung rằng sự an toàn của nước Bỉ là rất quan trọng đối với phe Đồng Minh và vì vậy họ sẽ bảo vệ biên giới của mình trước cuộc xâm lược bằng mọi cách, cho dù cuộc xâm lược đó chỉ trực tiếp nhắm vào Bỉ, hay đó là một phương thức nhằm chiếm đoạt các căn cứ tại đây để tiến hành chiến tranh chống lại "các quốc gia khác". Theo đó, Anh và Pháp đã giải phóng Bỉ ra khỏi những điều khoản của hiệp định Locarno về việc tiến hành một cuộc chiến đấu chung trong trường hợp Đức tấn công Ba Lan, trong khi vẫn giữ nguyên các giao ước của họ đối với Bỉ.[27]

Về mặt quân sự, người Bỉ nhận định Wehrmacht mạnh hơn quân Đồng Minh, nhất là Quân đội Anh, và việc tiến hành đàm phán với Đồng Minh sẽ dẫn đến việc Bỉ trở thành một bãi chiến trường mà không có Đồng Minh tương xứng.[28]

Bỉ và Pháp vẫn còn nhầm lẫn về điều mà họ mong đợi ở nhau nếu chiến tranh bắt đầu. Người Bỉ xác định rõ rằng sẽ giữ vững các công sự biên phòng dọc theo kênh đào Albert và sông Meuse, không rút lui cho đến khi nào Quân đội Pháp tới hỗ trợ họ. Gamelin thì lại không hào hứng với việc đẩy kế hoạch Dyle của mình ra xa hơn nữa. Ông ta lo ngại rằng người Bỉ sẽ bị đánh bật ra khỏi hệ thống phòng thủ của họ và phải rút về Antwerp, giống như vào năm 1914. Thực tế, các sư đoàn Bỉ bảo vệ biên giới dự định sẽ chạy về phía nam để liên kết với các lực lượng Pháp, nhưng thông tin này đã không được đưa tới cho Gamelin.[29]

Vượt qua những gì mà người Bỉ lo ngại, kế hoạch Dyle có nhiều ưu điểm. Thay vì giới hạn cuộc tiến quân tại sông Scheldt, hay đụng độ quân Đức tại biên giới Pháp-Bỉ, cuộc hành quân đến sông Dyle thu hẹp mặt trận của Đồng Minh tại trung tâm nước Bỉ đi 70–80 km, giải phóng được nhiều lực lượng hơn để bổ sung cho quân dự bị chiến lược. Nó còn giúp bảo vệ được thêm nhiều phần lãnh thổ Bỉ, đặc biệt là các khu công nghiệp ở phía đông. Ngoài ra nó còn có lợi thế là thu hút được thêm nhiều sư đoàn Hà Lan và Bỉ (ước tính có khoảng 20 sư đoàn Bỉ). Gamelin đã dựa vào những lý lẽ này để biện minh cho kế hoạch Dyle sau thất bại của nó.[30]

Ngày 10 tháng 1 năm 1940, đã xảy ra sự cố Mechelen, khi thiếu tá Hellmuth Reinberger phải hạ cánh khẩn cấp cùng chiếc máy bay Messerschmitt Bf 108 ở gần Mechelen-sur-Meuse.[31] Reinberger có mang theo những kế hoạch ban đầu của cuộc xâm lược của Đức vào Tây Âu, và đúng như mong đợi của Gamelin, nó là một sự lặp lại của kế hoạch Schlieffen năm 1914 theo đó quân Đức sẽ tấn công qua lãnh thổ Bỉ (được bổ sung thêm bằng cuộc xâm chiếm Hà Lan) và tiến vào Pháp. Kế hoạch không có gì hơn ngoài việc chiếm đóng Vùng Đất Thấp để làm căn cứ tiến hành các cuộc tấn công tiếp theo ở trên biển, trên bộ và trên không.[32]

Người Bỉ đã nghi ngờ đó là một mưu kế. Những kế hoạch đã được tiến hành một cách nghiêm túc. Tình báo Bỉ và tùy viên quân sự tại Köln đã giả thuyết chính xác rằng Đức sẽ không mở màn cuộc xâm lăng với kế hoạch này. Họ cho rằng Đức sẽ cố gắng tấn công qua vùng Ardennes thuộc Bỉ và tiến đến Calais để bao vây quân đội Đồng Minh tại Bỉ. Người Bỉ đã dự đoán đúng rằng Đức sẽ tiến hành một đòn Kesselschlacht (một trận chiến bao vây) nhằm tiêu diệt đối phương. Dự đoán của Bỉ trùng khớp với kế hoạch đề xuất của tướng Đức Erich von Manstein.[32]

Bộ Chỉ huy Tối cao Bỉ sợ rằng kế hoạch Dyle sẽ không chỉ khiến tình thế chiến lược của Bỉ mà còn là toàn bộ cánh trái mặt trận của Đồng Minh gặp nguy hiểm. Quốc vương Leopold và Đại tướng Raoul Van Overstraeten, phụ tá của đức vua, đã hai lần cảnh báo Gamelin và Bộ chỉ huy quân đội Pháp về những lo ngại của mình vào ngày 8 thảng 3 và 14 tháng 4. Nhưng những lo ngại của họ đã bị bỏ qua.[33]